Cải biến thành tàu sân bay Courageous (lớp tàu sân bay)

Một chiếc Sopwith Pup đang tìm cách hạ cánh không thành công xuống sàn đáp phía trước của Furious, ngày 7 tháng 8 năm 1917

Trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Furious được trang bị một sàn cất cánh phía trước và một sàn hạ cánh phía sau, nhưng sàn sau hầu như không sử dụng được do những luồng gió mạnh chung quanh cấu trúc thượng tầng và hơi thoát ra từ ống khói. Nó bị bỏ không sau chiến tranh, rồi được cải biến thành tàu sân bay từ tháng 6 năm 1921 đến tháng 9 năm 1925. Thiết kế của nó dựa trên kinh nghiệm ít ỏi thu được từ hai chiếc tàu sân bay đầu tiên của Anh Quốc: Argus vốn chưa đầy ba năm tuổi, và Eagle mới chỉ thực hiện 143 lần hạ cánh trong những lượt chạy thử máy ngoài biển vào năm 1920.[3][4][5]

Cấu trúc thượng tầng, các cột ăn-ten, ống khói và sàn hạ cánh của Furious được tháo dỡ, và nó được trang bị một sàn đáp kéo dài trên ba phần tư chiều dài con tàu với kích thước 576 nhân 92 foot (175,6 m × 28,0 m). Sàn đáp này không ngang bằng, nó dốc lên trong khoảng ba phần tư chiều dài từ đuôi để giúp giảm tốc độ máy bay hạ cánh, vốn không có phanh vào lúc nó được thiết kế. Các dây hãm trước và sau vào thời đó, ban đầu dài 320 foot (97,5 m) trên chiếc Furious, không được dự định để dừng chiếc máy bay hạ cánh, vì tốc độ hạ cánh vào lúc đó đủ chậm nên không cần đến nếu hướng đúng vào hướng gió; chúng dùng để ngăn ngừa máy bay bị chệch hướng và có thể rơi ra khỏi sàn đáp. Nhiều thiết kế khác nhau cho sàn đáp được thử nghiệm trong hầm gió của Phòng thí nghiệm Vật lý Quốc gia cho thấy dạng ellip đặc trưng và các cạnh tròn sẽ tối thiểu hóa việc nhiễu loạn. Để giảm tối đa sự nhiễu loạn không khí, Furious có sàn đáp suốt từ trước ra sau và không có đảo cấu trúc thượng tầng giống như Argus, thay vào đó nó có một phòng hải đồ thu lại được ở phía trước sàn cất cánh.[6]

Một hầm chứa máy bay (hangar) hai tầng được bố trí bên dưới sàn đáp, mỗi tầng cao 15 foot (4,6 m). Hầm bên dưới dài 550 foot (167,6 m) và rộng 35–50 foot (10,7–15,2 m); trong khi hầm trên có kích thước 520 nhân 50 foot (158,5 nhân 15,2 m). Mỗi hầm chứa máy bay có thể được ngăn ra bởi những tấm vách thép vận hành bằng điện. Hơi thoát ra từ các nồi hơi của nó được dẫn theo mạn tàu để thoát ra qua những ô lưới sắt ở phía đuôi tàu; hoặc bên mạn tàu cạnh hầm chứa máy bay bên dưới nếu chiếc tàu sân bay đang tiến hành hạ cánh. Giải pháp này rất không thỏa đáng, vì nó chiếm dụng quá nhiều chỗ trống quý báu trong hầm tàu, khiến một phần hầm tàu bên dưới không sống nổi do quá nóng, và ở một mức độ ít hay nhiều đều ảnh hưởng đến hoạt động hạ cánh.[7] Sàn cất cánh phía trước bên dưới nguyên thủy được giữ lại để sử dụng cho những máy bay nhỏ như máy bay tiêm kích, nhờ đó con tàu có thể đồng thời tiến hành hạ cánh trên sàn chính và cất cánh trên sàn dưới, hoặc nhanh chóng tung máy bay ra từ cả hai sàn. Các cánh cửa phía trước hầm chứa máy bay bên trên mở ra sàn cất cánh bên dưới.[8] Hai thang nâng máy bay kích thước 47 nhân 46 foot (14,3 nhân 14,0 m) được trang bị để chuyển máy bay giữa sàn đáp và hầm chứa. Hai bồn chứa xăng máy bay sẵn sàng để sử dụng, dung tích 600 galông Anh (2.700 l; 720 gal Mỹ) dành cho máy bay và các xuồng của con tàu; và một bồn chứa xăng thứ ba dung tích 20.000 galông Anh (91.000 l; 24.000 gal Mỹ) được giữ trong kho dưới hầm tàu. Các dây hãm dọc trên sàn đáp tỏ ra không hữu dụng và bị tháo dỡ vào năm 1927 sau khi các thử nghiệm tiến hành trên Furious vào năm 1926 cho thấy các tấm rào chắn gió bên mép sàn đáp có hiệu quả giảm các cơn gió giật ngang có thể thổi máy bay qua mạn tàu.[9]

Glorious trên đường đi nhìn từ trên không, năm 1936

Courageous và Glorious được cải biến thành tàu sân bay sau khi Furious bắt đầu được tái cấu trúc, nên được hưởng nhờ những kinh nghiệm hoạt động thu được. Courageous được cải biến tại Devonport bắt đầu từ ngày 29 tháng 6 năm 1924, và Glorious tại Rosyth từ ngày 14 tháng 2 năm 1924. Chiếc sau được chuyển đến Devonport để hoàn tất việc cải biến sau khi công việc đối với Furious hoàn tất. Thiết kế của chúng dựa trên Furious với một số cải tiến dựa trên những kinh nghiệm có được kể từ khi nó được thiết kế. Tất cả cấu trúc thượng tầng, tháp pháo và trang bị cho đến mức sàn tàu chính được tháo dỡ. Một hầm chứa máy bay hai tầng, mỗi tầng cao 16 foot (4,9 m) và dài 550 foot (167,6 m), được cấu trúc bên trên phần lườn tàu còn lại; hầm chứa máy bay trên mở ra một sàn cất cánh ngắn bên dưới và phía trước sàn cất-hạ cánh chính. Hai thang nâng hơi lớn hơn, kích thước 46 nhân 48 foot (14,0 nhân 14,6 m), được trang bị phía trước và phía sau sàn đáp. Một đảo cấu trúc thượng tầng được bổ sung bên mạn phải với cầu tàu, trạm điều hành bay và ống khói; đảo cấu trúc thượng tầng không gây ra nhiều nhiễu loạn như người ta vấn lo ngại trước đó. Vào năm 1939 cả hai con tàu có khả năng chứa 34.500 galông Anh (157.000 l; 41.400 gal Mỹ) xăng.[7]

Liên quan